Isamu Akasaki (85 tuổi, ở Đại học Meijo và ĐH Nagoya); Hiroshi Amano (54 tuổi, ở ĐH Nagoya) và Shuji Nakamura (Mỹ gốc Nhật, 60 tuổi, ở ĐH California) được tặng giải Nobel do phát minh ra diode phát ánh sáng xanh blue, một sáng chế có ý nghĩa thực dụng.
Từ năm 1949 cho tới nay đã có 22 người Nhật được trao giải Nobel, gồm 19 giải Nobel khoa học (10 người giải Vật lý, bảy người giải Hóa học, hai người giải Y học), hai giải Văn học và một giải Hòa bình. Tuy rằng trong số đó có hai người quốc tịch Mỹ mà Shuji Nakamura là một trong hai, nhưng thực ra thành tựu khoa học của họ được làm ra khi còn ở Nhật.
Xét về chỉ tiêu số người được trao giải Nobel, Nhật Bản xếp thứ 11 trên thế giới, tương đương với nước Nga, chưa phải là cao, đặc biệt nếu so với nước xếp thứ nhất là Mỹ (331 người). Nhưng với 19 người được trao giải Nobel khoa học, nước Nhật đang đứng hàng đầu châu Á về khoa học tự nhiên và bỏ xa Trung Quốc.
Năm 2001, Nhật đề chỉ tiêu phấn đấu trong 50 năm giành được 30 giải Nobel, hồi ấy nhiều người trên thế giới, nhất là người Trung Quốc, coi là trò đùa. Đến nay, 13 năm trôi qua, đã có 13 người Nhật giành được giải Nobel. Xem ra người Nhật đã nói là làm và làm tốt hơn cả dự kiến.
Người châu Á không thể không suy nghĩ tại sao nước Nhật làm khoa học và công nghệ giỏi như vậy. Rõ ràng điều đó có nguyên nhân ở chính sách coi trọng giáo dục và khoa học kỹ thuật (KHKT); ở đây xin chỉ nói về mặt thứ hai.
Ngay từ thời đại Edo trước cuộc Duy tân Minh Trị, chính quyền nhà nước Nhật đã xác lập truyền thống nghiên cứu khoa học cơ bản và chú trọng đào tạo thật nhiều nhân tài. Tuy hồi ấy nước Nhật chưa làm cách mạng công nghiệp nhưng họ đã tiến hành nghiên cứu độc lập trên các lĩnh vực như toán học, và tiếp xúc với khoa học phương Tây qua Hà Lan – quốc gia phương Tây duy nhất được chính quyền Nhật cho phép buôn bán với họ. Sở dĩ ngày nay các nhà khoa học Nhật được trao giải Nobel đó là do họ đã bỏ ra rất nhiều năm để tích lũy kiến thức khoa học, chứ không phải chuyện ngày một ngày hai.
Nhà nước quan tâm đầu tư phát triển KHKT
Sau Thế chiến II, Chính phủ Nhật coi khoa học kỹ thuật là công cụ chủ yếu để xây dựng đất nước, đã tập trung đầu tư rất lớn cho sáng tạo KHKT. Họ lập ra Hội Chấn hưng Khoa học Nhật Bản (JSPS, Japan Society for the promotion of Science) chuyên trách soạn thảo ấn định các dự án nghiên cứu KHKT. Hội này có tư cách pháp nhân hành chính độc lập, thực chất là một dạng quỹ đầu tư KHKT. Hội dựa vào kết quả thẩm định đánh giá công bằng để xét tài trợ cho những dự án nghiên cứu do các trường đại học là chủ thể thực thi, cũng như tài trợ cho các hoạt động giao lưu quốc tế. JSPS phụ trách cấp 60% toàn bộ kinh phí nghiên cứu khoa học có tính cạnh tranh do nhà nước đài thọ, là một trong những nguồn kinh phí nghiên cứu quan trọng nhất ở Nhật.
Chính phủ Nhật cấp kinh phí nghiên cứu KHKT cho các cơ quan nghiên cứu công lập như trường đại học, các viện nghiên cứu. JSPS lập ra Chương trình cấp kinh phí bổ trợ nghiên cứu khoa học, gồm các lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn, vật lý, hóa học, sinh học, kỹ thuật … và công bố các đề tài nghiên cứu, niên hạn nghiên cứu, tiêu chuẩn tuyển chọn nhân tài nghiên cứu và biện pháp sử dụng kinh phí. Kinh phí có các mức từ 0,5 triệu đến 200 triệu Yen và không đặt ra giới hạn trên đối với các đề tài trọng điểm. Trước thập niên 70 thế kỷ XX, ngân sách dành cho KHKT tăng bình quân hàng năm từ 10 đến 20%. Nguồn kinh phí dồi dào đã tạo điều kiện thực thi tốt các dự án nghiên cứu, kể cả dự án dài hạn 10-20 năm sau mới có kết quả. Từ đầu thế kỷ XXI, kinh tế Nhật tăng trưởng chậm lại, ngân sách KHKT không còn tăng lên hàng năm như trước, ảnh hưởng không nhỏ tới công tác nghiên cứu. Số nghiên cứu sinh tiến sĩ hiện nay giảm 15% so với năm 2003, tỷ lệ số bài báo khoa học của người Nhật từ 7,8% bình quân trong 20 năm trước giảm còn 5,4%.
Chú trọng nghiên cứu cơ bản
Khoa học cơ bản là nền tảng của công nghệ trong tương lai. Nếu muốn sinh viên sau này sẽ trở thành thủ lĩnh giới công nghệ thì nhà nước phải coi trọng và đầu tư vào khoa học cơ bản chứ không phải là đầu tư vào khoa học ứng dụng, vì lĩnh vực này sẽ được các công ty đầu tư.
Tất cả các nhà khoa học Nhật đoạt giải Nobel, kể cả hai người sau này vào quốc tịch Mỹ, đều tốt nghiệp các trường đại học công lập trong nước, rất nhiều người đã giành học vị tiến sĩ ở Nhật. Các trường đó đều là trường đại học kiểu nghiên cứu, rất chú trọng công tác nghiên cứu cơ bản. Nhà trường bảo đảm các nhà khoa học có thể tiến hành những đề tài nghiên cứu dài hạn sau đấy 10-20 năm mới có thể có ứng dụng. Các đề tài trung hạn thì cần chú trọng vào lĩnh vực công nghệ ứng dụng có thể đem lại hiệu quả kinh tế.
Sau khi ba nhà khoa học Nhật đoạt giải Nobel Vật lý 2014, báo chí Nhật nhận xét: công tác nghiên cứu khoa học ở Nhật có hai con đường: hoặc là con đường cạnh tranh công khai với các đối thủ khác, hoặc là con đường cô đơn một mình lặng lẽ nghiên cứu, không ai biết tới. Thí dụ nghiên cứu đèn LED là một đề tài rất khó, năm 1981 Akasaki từng báo cáo tại một hội thảo quốc tế nhưng không được ai quan tâm, tuy thế ông vẫn một mình kiên trì nghiên cứu, cho tới nay mới đạt kết quả được công nhận.
Các trường đại học Nhật có số cựu học sinh đoạt giải Nobel khoa học như sau: ĐH Tokyo – 3 người; ĐH Nagoya – 3; ĐH Kyoto – 3; ĐH Đế quốc Kyoto – 3; ĐH Đế quốc Tokyo – 2 (nếu kể cả Nobel Hòa bình và Nobel Văn thì là 4). Sáu trường ĐH có 1 cựu học sinh đoạt giải Nobel khoa học gồm: ĐH Tokushima, ĐH Kobe; ĐH Hokkaido; ĐH Nagasaki; ĐH Tohoku; Học viện Công nghệ Tokyo.
Coi nhà khoa học như thần tượng của giới trẻ
Xã hội Nhật có truyền thống đặc biệt coi trọng nhà khoa học. Các giáo sư đại học, các nhà nghiên cứu khoa học đều có địa vị cao hơn nhiều so với các giám đốc công ty, quan chức nhà nước và nghệ sĩ; các nhà khoa học được trả lương rất cao. Đồng bạc 1000 Yen in hình Noguchi Hideyo nhà sinh vật học nổi tiếng nước Nhật (1876-1928). Không người Nhật nào không biết tiểu sử các nhà khoa học lừng danh của họ. Giới phụ huynh đều dạy con em mình noi theo gương các nhà khoa học, coi đó là những thần tượng của lớp trẻ.
Trong 14 nhà khoa học Nhật đoạt giải Nobel từ năm 2000 trở lại đây có 10 người sinh ra vào thập niên 20 đến 40 thế kỷ XX. Năm 1949 họ hãy còn là những thanh niên mới lớn hoặc trẻ em dưới 10 tuổi. Năm ấy cả nước Nhật vô cùng phấn khởi trước tin người Nhật đầu tiên được tặng giải Nobel. Đó là Hideki Yukawa (1907-1981) – giải Nobel Vật lý 1949. Câu chuyện của ông đã cổ vũ nhiều thế hệ thanh niên Nhật lao vào sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Ngày nay sách, truyện, tranh ảnh về Yukawa vẫn bán đầy các hiệu sách. Akasaki, đồng chủ nhân Nobel Vật lý năm nay nhớ lại hồi ấy ông mới 20 tuổi, vừa vào đại học, khi nghe tin Yukawa giành giải Nobel, ông đã hạ quyết tâm « mình cũng nhất định phải làm nên một sự nghiệp gì đó chứ!».
Buồn vì thấy người Nhật giành được nhiều giải Nobel
Nhiều năm nay, mỗi khi đến mùa giải Nobel lại có vô số người Trung Quốc hồi hộp phấp phỏng dự đoán sẽ có đồng bào của họ trở thành chủ nhân giải thưởng cao quý này. Thực ra đã có một số người sinh ra ở Trung Quốc, như Lý Chính Đạo và Cao Côn sinh ở Thượng Hải, Dương Chấn Ninh sinh ở An Huy, Thôi Kỳ sinh ở Hà Nam, v.v… được trao giải Nobel, chỉ có điều họ đều mang quốc tịch nước ngoài – điều này lại càng khó hiểu.
Trước mùa giải Nobel năm nay, dư luận quốc tế đã dự đoán một số nhà khoa học Trung Quốc có khả năng trúng giải. Nhưng thời gian qua đi, người Trung Quốc lại nẫu lòng nẫu ruột thấy một lần nữa giải Nobel vẫn không đến với đất nước 1,3 tỷ dân có nền văn minh 5000 năm này. Họ ngạc nhiên, buồn bã và chua xót khi thấy 3 người Nhật soán giải Nobel Vật lý. Một nước Nhật «đồng văn đồng chủng» có số dân chỉ bằng 1/10 Trung Quốc, thời xưa từng tôn nền văn minh của người Hán làm thày, nay đã có 19 người được trao giải Nobel Khoa học, trong khi Trung Quốc chưa có lấy một.
Mạng Tân Hoa ngày 8/10 đăng bài «Vì sao Nhật có lắm người đoạt giải Nobel thế?» Bài báo viết: Trước kia người Trung Quốc không mấy quan tâm đến vấn đề này, vì giải Nobel cách họ còn xa lắm; họ hâm mộ thành tựu nghiên cứu khoa học của người Nhật, nhưng không ghen ghét, bởi lẽ hồi ấy trình độ phát triển kinh tế Trung Quốc kém xa Nhật. Giờ đây khi quy mô nền kinh tế Trung Quốc đã vượt Nhật, trở thành số 2 thế giới, người Trung Quốc không chỉ hâm mộ thành tựu nghiên cứu khoa học của Nhật mà còn đi sâu tìm hiểu đâu là động lực khiến Nhật có thể giành được nhiều giải Nobel. Họ quan tâm hơn đến giải Nobel vì một lẽ rất đơn giản: chưa bao giờ người Trung Quốc thấy mình gần giải Nobel như ngày nay. Sau hơn 30 năm liên tục phát triển kinh tế, Trung Quốc ngày nay đã thanh toán được trở ngại thiếu kinh phí và thiết bị nghiên cứu khoa học để giành giải Nobel.
Bài báo cho rằng nếu chỉ nói Nhật đoạt nhiều giải Nobel là do họ chú trọng nghiên cứu cơ bản, bảo đảm đủ kinh phí nghiên cứu khoa học và có truyền thống coi trọng giáo dục thì chưa đủ, vì như thế đã bỏ qua nhân tố con người, chế độ và môi trường văn hóa. Tác giả nói còn có mấy nguyên nhân như sau: 1- Người Nhật có tác phong học thuật cực kỳ nghiêm khắc cẩn mật, tới mức phát sợ; họ rất ít chịu sự can thiệp của sức mạnh hành chính, có độ tự do khá cao; 2- Họ thực sự tôn trọng học vấn, cái gì tốt nhất đều giành cho trường học, trò gặp thày đều cúi rạp mình, nghề thày được tôn trọng, trả lương hậu, đời sống không có gì phải lo; 3- Giới trí thức rất bình đẳng với giới chính trị, có chút như mối quan hệ giữa Phật Như Lai với Ngọc hoàng Thượng đế trong truyện Tây Du Ký.
Đồng thời tác giả cũng nói giới khoa học Nhật còn có hiện tượng sống lâu lên lão làng rất nặng, chứ không thông thoáng như phương Tây, đây là nguyên nhân khiến số người đoạt giải Nobel ở Nhật còn ít hơn các nước Âu Mỹ
Nguồn Tạp chí Tia Sáng ngày 16/10/2014.